"Chiều xưa phai nắng dấu mòn đưa lối
Soi bóng chung đôi mà ngỡ chia phôi"
Ở Đà Nẵng, tôi sống bồng bềnh trên không, như một
con nhện đen bám vào một sóng lụa. Ở đấy đời đẹp không phải vì biển hay núi, mà
ấy là lần đầu tiên tôi hiểu ra nhiều thứ. Vì nơi ấy tôi có tất cả, tất cả mọi
thứ đẹp đẽ nhất ở đó. Có ảm đạm đèn đường, có hun hút xóm khuya, có vắng quán
đêm và nhỏ ngõ. Chỉ cần một lần được ở đó, được đi bộ men lối từ Ngã tư Nguyễn
Chánh, giữa quốc lộ 1A, qua Bệnh Viện Tâm Thần, phóng mắt nhìn suốt về một đô
thị tinh vân bí ẩn, và quay lại là những mảnh đồi Hải Vân kì vĩ sau lưng, nhưng
rồi lại không lựa chọn gì cả, lại chọn lựa rẽ thẳng vào cái kiệt sứt sẹo nhất,
mỗi bước lại một chùn xuống, những nhà cửa thấp bé đời đời nói lời từ chối
khách và những đôi mắt duyên hải trung bộ tò mò nhìn lên, ta bỗng rùng mình khiếp
sợ cái tính hợp lý của đời sống này. Chẳng phải tất cả đã rõ ràng rồi sao? Rằng
cuộc đời là phép cộng của những gì đúng chỗ, ta còn đi tiếp để làm gì?
Nhưng cũng suốt một con đường ấy, ngày nào người
ta cũng mở bài Phố Đêm, Nửa Đêm Ngoài Phố và Sương Lạnh Chiều Đông. Ba ca khúc
cứ như thể chính là để hát về vùng ngoại ô Đà Nẵng. Lần đầu tiên những bài hát ấy
là của chung, không còn hát cho riêng từng số phận. Đó chính là sứ mệnh của
Bolero. Phố Đêm thì không hề tả phố, thậm chí hình như cũng không tả đêm nốt. Một
từ ấy thâu tóm tất cả. Chưa bao giờ những giai điệu ấy lại mãnh lực như vậy, suốt
một tháng trời tôi không hiểu gia đình nào phát ra những ca khúc đó. Đấy thực sự
là một ý chỉ, một sấm truyền.
Quãng đời ngoại ô của tôi thì rất ngắn, nó ngắn
vì nó đằng đẵng những lặp lại, ngày nối ngày đêm nối đêm. Ở ngoại ô, tôi là thanh
niên Bắc Kì ngày ngày mặc quần đùi đi ăn mì Quảng, hủ tiếu. Tôi thực sự viết tiếp
Tường Lửa ở quãng đó. Quán cafe 222 ngày nào cũng thấy một khách lạ, ngồi khuất
sau đám chơi bài, với một cái máy tính nhỏ, và Cocacola chanh, giọng thì Hà Nội.
Tôi viết cho đến khi hoàng hôn xuống. Sáng ra, tôi chạy bộ ra cửa biển Nguyễn Tất
Thành, đất ở khu vực ấy được phân lô đều như cắt bánh. Bầu trời có màu vàng đục
của một ánh lửa nhìn qua tờ giấy pơ luya. Hoang sơ và trù phú xếp cạnh nhau, tự
do và tù đày xếp cạnh nhau, làng mạc hoang vu xếp cạnh đô hội mê cuồng, biển
khơi xếp cạnh núi đèo hung hiểm và ở giữa của những đối xứng ấy, ngay chính
trung tâm, là Bệnh viện Tâm thần – kim chỉ nam của các shipper mỗi lần họ gửi đồ
cho tôi. Cấu trúc bền vững ấy tựa như một lâu đài vĩnh cửu, ta chỉ việc chân
sáo rong chơi. Tôi nhớ mãi những ngày đầu tiên, khi ngồi trên chiếc ghế gập và
uống nước dừa (chắc chắn không phải nước mắt quê hương), nhìn lên vòm trời khổng
lồ để cố đoán xem cái vệt khói thẳng đứng ở phía kia có thể là hệ quả của hiệu ứng
khoa học gì đây, một tôi trong số rất nhiều cái tôi của tôi nói rất khẽ rằng,
đây chính là đời ta đây rồi.
Nhưng đa phần người ta đến Đà Nẵng để nhận ra rằng
đấy không phải là cuộc đời của ta, không phải đâu ạ. Cuộc đời của ta là văn
phòng buồn tẻ và hạnh phúc giả vờ. Là niềm vui dối trá của một đời riêng đã tan
hết vào tập thể. Những đóa hoa chết, những ngục tù nhìn nhau qua kính cửa
Eurowindow của tầng mười hai... (Và một trừng phạt nữa là những chuyến du lịch
cùng cơ quan đi biển Mỹ Khê, sau khoảng một giờ bay từ Hà Nội, người ta sẽ làm
một trò gọi là team building. Trò này đặc biệt hữu hiệu vì nó nhắc nhở rằng
chúng ta không phải là người đâu).
Ở đấy tôi có một người bạn tốt. Anh chia sẻ cuộc
đời trầm lặng của mình cho tôi, không có món quà nào lớn hơn thế. Phòng chúng
tôi tràn đầy âm nhạc, lũ gián có lẽ cũng đã thuộc bài Xóm Đêm của Phạm Đình
Chương, bọn muỗi thì không lạ gì Trầm Tử Thiêng Đưa Em Vào Hạ, nỗi sầu chinh phụ
của Tạ Từ Trong Đêm đã vỗ về giấc mơ của loài thạch sùng. Đêm, gió biển nhấn
chìm những tấm thân trót mang chí cả, chúng tôi uống thật say: thành phố kia
không rõ là mơ hay thực.
(Còn tiếp)
Nhận xét
Đăng nhận xét