Gần đây có vẻ nhiều người hào hứng với "âm hộ" nhỉ? Đa phần sinh trước năm 1995. Góp thêm một yếu tố vào sự quan sát thế hệ.
Nhìn chung, sự "hí hửng với cái tục" đã có gốc rễ từ quá khứ, nhìn rõ nhất ở thế hệ lớn lên với văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa. Ảnh gợi tình, gây ý nghĩ đen tối, bộ phận sinh dục, thơ có phụ khoa..., ẩn trong vẻ dí dóm hài hước, làm họ cực kì bị thu hút. Vì họ nhìn thấy ở đó một đường thoát. Yếu tố tục đưa các tác phẩm đến một chỗ đứng nhất định, tuy rất chênh vênh (nhưng đừng quên: phải cao mới chênh vênh được). Khoảng mươi năm trước, (cái thời Sách Đông Tây đi xuống còn sách Nhã Nam thì bắt đầu đi lên: tức là "lớp người đổi mới khác xưa"), người ta kháo nhau Phạm Duy có bảy bài tục ca (Gái lội qua khe nước từ rừng về, Em đ*t vua em đ*t chúa), ra chiều hiếm có lắm. (Hiếm, nhỏ, ít và dí dỏm: đó chính là những ma tuý làm say mê một lớp người yếm thế). Nhưng 7 bài tục ca của Phạm Duy thì chỉ ở mức trung bình đến kém (trải rất đều), về tục tằn thì kém xa rap gangz của Khanh Nhỏ. Nhưng vấn đề lớn của nó, tục của Khanh Nhỏ là tục, một địa điểm, một chỗ đứng yên, còn tục của Phạm Duy đứng đối gương với cái thanh (ca nhi đối gương u sầu riêng bóng), đứng ở hai đầu và tạo ra một đường thoát.
Nên không lạ khi có tin cải cách chữ Tiếng Việt, người ta liên hệ ngay đến "con cac" và "cai lon" (vụ Lon này cũng có một quá khứ): vì mặt đã quay sẵn về phía đường thoát.
Đường thoát ấy thoát khỏi cái gì?
Hồi sinh viên tôi có hay lang thang các tụ điểm của các thiền sư (các thiền sư ấy lại rất "máu" làm thơ, có nhã thú đánh chắn, lại xiển dương phồn thực). Một thiền sư - cao thủ chơi chắn - cảm thấy tôi có chút lắng nghe liền bàn về chuyện văn chương. Trong câu chuyện ấy, tỷ lệ những biệt ngữ về phụ khoa âm hộ tăng lên bất thường. Đầu tiên tôi cũng giống thiền sư ấy - tưởng thế là hay - nhưng sau đó mới biết ở mọi yến tiệc của quần hùng, sex joke lúc nào cũng là ưu tiên. Vì đó là một đường thoát.
Một đường thoát dễ đón nhận những luồng giao thông khác tràn vào. Các nhà thơ của giai cấp rất dễ đưa phụ khoa vào tác phẩm, còn các nhà văn của nhân dân thì không tả gì giỏi hơn là ẩn dụ "lòng trắng trứng gà". Đường thoát đưa họ đến chỗ đứng của bình dân, khi hết bình dân, tiếp tục đưa họ đến chỗ đứng của phản kháng.
Hôm trước có một bài của Hồ Anh Thái, nhưng ít người nhận ra: chính Hồ Anh Thái từng có thời gian lấy ngôn ngữ lá cải của dân mạng, của vỉa hè và nói chung của phe yếm thế làm nguyên liệu - một cách hứng thú là đằng khác - đọc SBC là Săn Bắt Chuột. Đến đây mới nảy ra một chuyện: khi có Facebook, các joke, các giễu nhại của văn chương thời ấy trở nên nhạt toẹt. Bối cảnh đó, có một nhà văn chân chính nhìn thấy chính mình của ngày cũ trong bọn dân mạng hôm nay: đó chính là nhà văn Hồ Anh Thái.
Chẳng phải vì thế mà yếu tố tục đã làm một số tác giả có thể gây sững sờ cho cả một thế hệ: Nguyễn Huy Thiệp, Vy Thuỳ Linh, Mở Miệng, Đỗ Hoàng Diệu (sau này còn nhiều người vẫn đi đường cũ: Nguyễn Khắc Ngân Vi). Nhưng họ thoát đi rất nhanh, chỉ có một vài người, nhất những người liên quan đến Thiền là còn bấu víu lại: Đặng Thân. Ở lại đường thoát làm gì? Đường thoát cũng chỉ là một con đường. Đường thoát này đặc biệt hữu dụng với các nữ sỹ vì họ tạm thời ra khỏi các định chế và sớm muộn cũng tìm được con đường khác, con đường rẽ ấy được miêu tả dưới đây.
Đứng ở chỗ chênh vênh rất khó, những ai đi được lên ấy chắc chắn đã có sứ mạng, bằng không sẽ ở lại đường thoát, hoặc rẽ sang hướng phụ cận. Samuel Beckett và Ionesco: hai ví dụ của chênh vênh, hai kẻ ấy đứng mãi ở vị trí đối gương với các định chế. Nên con đường thoát đi lên chỗ ấy có một vẻ đẹp thôi miên: những sex joke làm cho ta "trông có vẻ như" ra được khỏi yếm thế và mặc cảm, vì nó gợi đến việc con người chỉ là các loài thú bình đẳng, có một thân thể, một chiếc bóng, một ảnh gương và một dục vọng. Điều này làm ta trông cứ như là tiến thẳng đến nhân loại.
Dễ hiểu sao thơ ca một thời ở Việt Nam rất hay có cảm thức nhân loại. Không lạ khi một nhà thơ lại hay cảm thương rưng rức về chiến trận ở Afghanistan đến thế. Đặc biệt lại hay có trường ca, vì trường ca gợi ra hình ảnh của đi một con đường thoát. Và một nhà thơ viết về nhân loại thì kiểu gì cũng viết về mẹ. Bởi vì không chịu nổi chỗ đứng chênh vênh, thì buộc phải rẽ vào ngả khác: nối từ tử cung đến nhân loại, núp sau rặng cây của phê bình phân tâm học.
Tôi không muốn nói đến những chuyện còn xa hơn nữa: sâu thẳm trong tâm hồn nhiều văn nghệ sỹ trí thức, nạn dịch của nhân loại mang đến một khoái cảm. Bên cạnh sợ hãi, sâu trong họ có một cảm thức lạ kì, thúc đẩy họ mong muốn những tai ương sẽ còn kéo dài thêm. Họ sợ hãi. Nhưng sợ hãi chính là ảnh gương của khoái cảm
Yếm thế khiến các nhà thơ ấy - trong thơ tình - sẽ chọn ngay vị trí đối diện. Chưa thử thống kê, nhưng các cây phê bình chắc chắn nhận ra công thức thơ quen thuộc:
"Em xyz
Tôi (hoặc "ta" cho nó đỡ mặc cảm) abc"
Chẳng hạn, tôi sẽ viết luôn thử một câu:
"Em cúi xuống nhặt hoa khuya tháng sáu
Ta với tay chạm bóng đổ hoang tường"
Những địa thế thấp đến như vậy tất nhiên làm các nhà thơ căm thù vẻ đẹp của phụ nữ. Đưa chúng vào joke là tiện nhất. Còn cao tay hơn, phải biết kéo dài đường thoát. Một nhà thơ của nhân dân đương nhiên sẽ tả mắt môi và vai thật là trữ tình, nhưng ở phía đầu đường kia, cũng chính thi sỹ ấy sẽ share bài thơ "âm hộ".
Tất cả điều này được giải phóng qua đường thoát, và Freud không giải thích được gì ở đây hết: mặc cảm ấy là mặc cảm ngôn ngữ.
P/S: Bây giờ ta sẽ thấy một yếu tố khác làm nên Trần Thiện Thanh. Trong quả phổ thơ "Chiều trên phá Tam Giang" Trần Thiện Thanh thêm vào câu gì? Chính là: "Em ơi em ơi em ơi". Ít ai tâm tình thủ thỉ nhiều như Trần Thiện Thanh, nhưng lại sòng phẳng và nghiêm ngắn ("Sao em cúi mặt không nhìn đôi mắt hứa thương em trọn đời?").
Đấy mới là một thơ tình của Không Yếm Thế. Mới có thể vút lên được "trên đỉnh mùa đông" và "nên anh yêu mùa đông ôi mùa đông của anh"
Nhận xét
Đăng nhận xét